Nguồn gốc đồng tính thông qua các minh chứng khoa học

Hiện nay khi cuộc sống ngày càng phát triển, nỗi ám ảnh mang tên "đồng tính" dường như đã không còn xa lạ gì đối với đại đa số mọi người. Và sự "kỳ thị" của những câu chuyện mang tên tình yêu giữa những người này cũng đã dần trở nên khoang thai và rộng lượng. Theo nghiên cứu của iSEE, Việt Nam đang có khoảng 1,6 triệu người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGB...

Nguồn gốc đồng tính thông qua các minh chứng khoa học Nguồn gốc đồng tính thông qua các minh chứng khoa học

Hiện nay khi cuộc sống ngày càng phát triển, nỗi ám ảnh mang tên "đồng tính" dường như đã không còn xa lạ gì đối với đại đa số mọi người. Và sự "kỳ thị" của những câu chuyện mang tên tình yêu giữa những người này cũng đã dần trở nên khoang thai và rộng lượng. Theo nghiên cứu của iSEE, Việt Nam đang có khoảng 1,6 triệu người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGBT) ở độ tuổi 15 - 59, chiếm khoảng 3 – 5 % dân số. Con số trên chỉ mới là sơ bộ điều tra, thực tế có lẽ còn lớn hơn nhiều, vì nhiều lý do mà những người ở các giới LBGT này còn dè dặt và e ngại... nhất là sợ sự kỳ thị của dư luận xã hội, gia đình... nên họ chưa dám công bố, hay công khai thừa nhận.

vicare.vn-nguon-goc-dong-tinh-thong-qua-cac-minh-chung-khoa-hoc

Hầu hết tất cả chúng ta đều nghĩ rằng những khiếm khuyết về tâm lý, những sai lệch trong môi trường sống... cùng rất nhiều yếu tố tinh thần khác đã làm rối loạn khuynh hướng tình dục, biến những con người bình thường thành những con người đồng tính luyến ái, bệnh tật và bị cả xã hội lên án. Tuy nhiên trên thực tế, vấn đề này đã được khoa học chứng minh một cách rõ ràng những yếu tố trên chỉ là một phần rất nhỏ. Vì vậy để hiểu rõ hơn hãy cùng Vicare tìm hiểu vấn đề này ngay sau đây, để một phần nào đó chúng ta có được cái nhìn ưu ái hơn cho những người không quyết định được số phận của mình.

Đồng tính là gì?

Đồng tính là một thuật ngữ chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu, tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau. Với vai trò là một thiên hướng tình dục, đồng tính là một mô hình bền vững của sự hấp dẫn tình cảm, tình yêu, và tình dục một cách chủ yếu hoặc duy nhất đối với những người có cùng giới tính. Như vậy, nói chung, một người đồng tính luyến ái, một cách cơ bản, là người dửng dưng với sự hấp dẫn thể lý của người khác phái và nghiêng chiều một cách vững bền và chủ yếu để tìm kiếm sự thỏa mãn tình dục và/hay thỏa mãn tình cảm và hạnh phúc trong tương quan với người cùng phái.

vicare.vn-nguon-goc-dong-tinh-thong-qua-cac-minh-chung-khoa-hoc

Đồng tính có phải là một căn bệnh?

Trước năm 1994 trên thế giới người ta vẫn quan niệm rằng, đồng tính là một căn bệnh thuộc nhóm bệnh lệch lạc giới tính và có liên quan đến các biểu hiện suy đồi đạo đức. Thậm chí một số quốc gia còn liệt đồng tính là một bệnh thuộc bệnh tâm thần và cần theo dõi sát sao. Từ sau năm 1994, các nhà khoa học đã nhận ra sai lầm của mình nên từ đó đồng tính luyến ái không bị coi là một căn bệnh nữa. Họ cho rằng đây là một hiện tượng, một thiên hướng tình dục bình thường. Và cụng vào vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ - APA cũng đã loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các chứng rối loạn tâm thần của APA (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê bệnh Tâm thần DSM-II). Quyết định này là một thắng lợi quan trọng cho những người đồng tính. Đây không phải là một căn bệnh mà là một trong những thiên hướng tình dục, tức là trung tâm não của những người đồng tính chỉ nhận diện đối tượng tình dục là người cùng phái.

vicare.vn-nguon-goc-dong-tinh-thong-qua-cac-minh-chung-khoa-hoc

Những giả thuyết khoa học về căn nguyên đồng tính nam

Theo nhiều giả thuyết thì đồng tính là một đặc tính không thể tồn tại lâu và ảnh hưởng tới tiến trình duy trì nòi giống. Đồng tính ở nam giới là do sự mất cân bằng về kích thích tố, tức là nếu kích thích tố nữ trội hơn trong người nam thì người đó sẽ có những bản tính giống như người phụ nữ (mếm mại, nhẹ nhàng, yếu đuối).

Thế nhưng, đến năm 1991, nhà thần kinh học tại bệnh viện chuyên về thần kinh Salk của Mỹ đã công bố một công trình gây chấn động các nhà khoa học. Đó là công trình về giải phẫu một phần não của vùng dưới đồi của 41 người chết do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số đó có 16 người đồng tính luyến ái, trong quá trình nghiên cứu một cách khoa học và xem xét nghiêm túc những chứng cứ thu thập được, ông cho biết: ở những người đồng tính, thành phần não điều khiển hành vi tính dục ở người và các động vật có vú cao cấp chỉ nhỏ bằng một nửa của những người bình thường. Năm 1993, các nhà nghiên cứu khác do bác sĩ Dean Harner lãnh đạo đã tìm thấy mối quan hệ mật thiết giữa hệ thống di truyền của con người và bệnh đồng tính luyến ái. Họ tìm thấy một đoạn gen đặc biệt trên nhiễm sắc thể giới tính X được truyền từ người mẹ sang và hay gặp ở những người đồng tính. Đến năm 2003, các nhà nghiên cứu y học xã hội của Mỹ cũng đã tìm thấy mối liên quan giữa các đặc điểm của bàn tay nam giới với thái độ tính dục. Do tác động của các hoóc-môn giới tính nam, nhất là testosterone, đàn ông thường có ngón tay trỏ ngắn hơn ngón đeo nhẫn và bàn tay của những người phụ nữ đồng tình ái cũng mang đặc điểm này.

vicare.vn-nguon-goc-dong-tinh-thong-qua-cac-minh-chung-khoa-hoc

Nhà nghiên cứu Camperio Ciani (Ý) cũng đã tiến hành nghiên cứu với 161 người phụ nữ có họ hàng với những người đồng tính và không đồng tính, Camperio phát hiện ra sự tương đồng về gen giữa những người đàn ông đồng tính với mẹ và dì của họ. Ông nhận thấy rằng, những người họ hàng của người đồng tính nam thường sinh nhiều con hơn không phải vì họ sống buông thả hơn mà là do họ có những đặc điểm hấp dẫn phái mạnh một cách rõ rệt hơn. Theo giả thuyết này, một số gen được thừa hưởng từ người mẹ khiến người đàn ông sinh ra sẽ trở thành người đồng tính. Loại gen này nằm ở nhiễm sắc thể X của người phụ nữ và tồn tại qua nhiều thế hệ. Chị em gái của họ nếu mang gen này từ mẹ có thể di truyền cho các thế hệ kế tiếp. Đôi khi gen đồng tính không được truyền từ mẹ sang con nhưng nó có thể lặp lại ở những thế hệ sau. Kết quả của những giả thuyết cho thấy rằng người đồng tính, vốn do gen di truyền gây ra đồng tính quyết định.

Đồng tính luyến ái nữ

Đến tận bây giờ vẫn chưa có một nghiên cứu nào có thể lý giải chắc chắn về nguyên nhân gây nên xu hướng tình dục đồng tính ở phụ nữ. Nhưng theo một nghiên cứu đã được tiến hành trên 3.826 cặp sinh đôi cùng giới (7.652 cá nhân) ở Thuỵ Điển đã cho thấy, những yếu tố thuộc về bẩm sinh như yếu tố di truyền và môi trường xung quanh sự hình thành và phát triển của bào thai trước khi đứa trẻ ra đời. Trong đó bao gồm quá trình sinh học như tiếp xúc hormone khác nhau trong bụng mẹ, chiếm chủ yếu trong việc hình thành thiên hướng tình dục đồng giới. Các tác nhân như môi trường gia đình, xã hội, giáo dục con cái không ảnh hưởng hoặc hoặc ảnh hưởng không đáng kể tới sự hình thành thiên hướng tình dục đồng tính. Nghiên cứu này đưa ra các số liệu: yếu tố gen di truyền có ảnh hưởng khoảng 35% ở nam và 18% ở nữ, yếu tố môi trường phát triển thai nhi trong bụng mẹ chiếm tỷ lệ chủ yếu tới 64% ở cả nam và nữ. Trong khi đó, yếu tố môi trường gia đình, xã hội, giáo dục chỉ giải thích 16% trong sự hình thành xu hướng tình dục đồng tính nữ và không có ảnh hưởng tới sự hình thành xu hướng tình dục đồng tính nam.

vicare.vn-nguon-goc-dong-tinh-thong-qua-cac-minh-chung-khoa-hoc

Cũng theo một nghiên cứu về các cặp song sinh được tiến hành tại Vương quốc Anh vào năm 2011, đồng tính nữ chỉ có 25% là do di truyền. Nhà tâm lý học - Lisa Diamond thuộc trường Đại học Utah (Mỹ) đã chỉ ra rằng, định hướng tình dục của phụ nữ có thể định hình bởi những thay đổi về môi trường sống, ảnh hưởng văn hóa tích cực hay tiêu cực về cảm giác tình yêu mà ít chịu ảnh hưởng từ gen di truyền.