Khi cha mẹ biết con có quan hệ cùng giới, câu hỏi bật ra đầu tiên đó là “làm sao có thể biết con tôi thực sự đồng tính?”. Điều này thể hiện việc các bậc cha mẹ thường chối bỏ và hy vọng mong manh con mình chỉ “đua đòi” hoặc “thử nghiệm” chứ không phải là “đồng tính thật”. Tất nhiên, “không có bài thử tâm lý hoặc vật lý nào để nói rằng một người vị thành niên (hoặc bất kỳ ai) là đồng tính.” Các bác sĩ cũng như cha mẹ không cần phải “xét nghiệm” xu hướng tính dục đồng giới của trẻ vị thành niên. Trẻ vị thành niên có thể nhận ra cậu ấy là người đồng tính, và không thể và không nên “hướng” cậu ấy đến xu hướng tính dục khác. Tiếp theo, cha mẹ thường có câu hỏi “tại sao con tôi là đồng tính? Có phải lỗi tại tôi? Có phải con tôi đã là đồng tính và sẽ luôn là đồng tính?”

Trẻ vị thành niên có thể nhận ra cậu ấy là người đồng tính, và không thể và không nên “hướng” cậu ấy đến xu hướng tính dục khác - Ảnh minh hoạ
Trẻ vị thành niên có thể nhận ra cậu ấy là người đồng tính, và không thể và không nên “hướng” cậu ấy đến xu hướng tính dục khác - Ảnh minh hoạ

Khoa học chưa khẳng định được nguyên nhân quyết định xu hướng tính dục, cho cả dị tính luyến ái và đồng tính luyến ái. Có hàng núi bằng chứng về ảnh hưởng của gien và di truyền lên xu hướng tính dục. Lý thuyết về nguyên nhân sinh học của xu hướng tính dục đồng giới được thể hiện mạnh nhất trong nghiên cứu của các cặp sinh đôi cùng trứng. Nhưng điều mà chúng ta biết rõ là cha mẹ không “gây” ra xu hướng tính dục. Điều tra rộng lớn của Bell, Weinberg, và Hammersmith vào năm 1981 đã phủ định lý thuyết cho rằng xã hội hoặc tâm lý là nguyên nhân của xu hướng tính dục đồng giới. Rõ ràng, cha mẹ không đóng vai trò gì trong việc hình thành xu hướng tính dục của con.

Cha mẹ thường lo lắng xem đồng tính “có ảnh hưởng đến sức khỏe của con tôi và có biện pháp bảo vệ gì không?”. Tất nhiên, bản thân đồng tính không ảnh hưởng gì đến sức khỏe. Có một vài rủi ro gắn với một vài hành vi tình dục và bản dạng đồng tính trong một xã hội căm ghét người đồng tính. Thái độ kỳ thị đồng tính trong xã hội dẫn đến nhiều rủi ro. Sự căm ghét đồng tính – một nỗi sợ hãi phi lý đồng tính khá phổ biến trong văn hóa đã dẫn đến bệnh tật hoặc cái chết của nhiều người trẻ đồng tính. Sự căm ghét đồng tính trong xã hội dẫn đến sự tự căm ghét bản thân và điều này gây ra lòng tự trọng thấp cũng như các hậu quả của nó.

Một trong những nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng nhất ở trẻ vị thành niên đồng tính là tự tử. Nghiên cứu của Roesler và Deisher cho thấy 38% trẻ vị thành niên đồng tính nam đã ít nhất có một lần cố tự kết liễu đời mình. Các hành vi tự tử này thường theo sau một giai đoạn bão tố về tình cảm hoặc thể chất gây ra bởi bạn bè hoặc gia đình khi biết rằng họ là đồng tính. Hành vi tự tử cũng có thể là kết quả của nhiều năm nghe các câu truyện tiếu lâm về đồng tính và tự ứng vào bản thân mình dẫn đến giảm lòng tự trọng. Báo cáo năm 1989 của Nhóm công tác của Bộ trưởng Bộ y tế Hoa Kỳ về hành vi tự tử ở tuổi trẻ đã cho thấy có đến 30% trẻ vị thành niên tự kết liễu đời mình là đồng tính.

Các áp lực này có thể dẫn đến việc sử dụng chất gây nghiện. Có tới 30% người đồng tính trẻ có vấn đề với thuốc gây nghiện hoặc rượu. Trẻ đồng tính thường trải qua bạo lực nhiều hơn trẻ dị tính. Martin và Hetrick thấy rằng 40% trẻ học ở trường Harvey Milk (trường trung học cho người đồng tính ở New York) đã từng bị tấn công vì xu hướng tính dục đồng tính của mình. Gần một nửa bị lạm dụng bởi các thành viên trong gia đình. Cha mẹ có thể làm giảm nguy cơ bạo lực bằng cách đảm bảo nó không xảy ra trong gia đình nhưng nó vẫn xảy ra ở ngoài xã hội.

Ngày nay, HIV/AIDS là điều đầu tiên cha mẹ nghĩ đến khi biết con mình là đồng tính. Là đồng tính không có nghĩa là đưa đến cho đứa trẻ bệnh lây qua đường tình dục (STDs) hay HIV. Tuy nhiên, các hành vi tình dục như quan hệ qua đường hậu môn không dùng bao cao su, đặc biệt với nhiều bạn tình sẽ làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh lậu, giang mai, viêm gan, và các bệnh đường ruột khác. Phải biết rằng sự lây nhiễm HIV được giảm rất đáng kể khi sử dụng bao cao su. Một trẻ vị thành niên sẽ quan hệ tình dục an toàn nếu có lòng tự trọng cao và sự tự chấp nhận bản thân mình. Một người mà cảm thấy mình thật tồi tệ thì thường không quan tâm đến việc tự bảo vệ cho bản thân mình. Cũng nên biết, Các hành vi tình dục của đồng tính nữ có nguy cơ lây nhiễm STDs thấp hơn phụ nữ dị tính.

Các thành phố lớn có các tổ chức dành cho các bạn trẻ đồng tính để cung cấp nơi an toàn cho giao lưu, nhưng ở các thị xã lẻ thì trẻ đồng tính thường bị cô lập hơn - Ảnh minh hoạ
Các thành phố lớn có các tổ chức dành cho các bạn trẻ đồng tính để cung cấp nơi an toàn cho giao lưu, nhưng ở các thị xã lẻ thì trẻ đồng tính thường bị cô lập hơn - Ảnh minh hoạ

Nguy cơ lây nhiễm STDs và HIV cũng tăng do sự thiếu hiểu biết về việc thiết lập quan hệ yêu đương. Những người trẻ tuổi đồng tính phải tìm sự giúp đỡ thường thiếu những kỹ năng xã hội cơ bản như làm sao có thể hẹn hò, làm gì trong buổi hẹn hò, làm sao tiến tới quan hệ tình dục. Họ thường thiên về việc quan hệ tình dục với người lạ, không chọn lọc hoặc là quan hệ tình dục không an toàn. Họ cần có cơ hội để giao lưu trong cách thông thường với những trẻ đồng tính khác. Các thành phố lớn có các tổ chức dành cho các bạn trẻ đồng tính để cung cấp nơi an toàn cho giao lưu, nhưng ở các thị xã lẻ thì trẻ đồng tính thường bị cô lập hơn.

Như vậy, điều quan trọng là bố mẹ phải hiểu rằng con mình vẫn là nó như trước khi biết nó là đồng tính. Cha mẹ nên bình tĩnh và suy nghĩ trước khi hành động để tránh hối hận về sau. Hội cha mẹ và bạn bè của người đồng tính (PFLAG) rất hữu ích trong việc cung cấp thông tin và hình mẫu để cha mẹ tự hào về con và chấp nhận xu hướng tính dục của nó. Chính vì vậy, ngoài việc thừa nhận con là đồng tính cha mẹ nên tham gia PLFAG và các hoạt động xã hội để bảo vệ con mình một cách tốt nhất.

Nguồn: http://motthegioi.vn/