Bị bệnh sâu răng uống thuốc gì?
Sâu răng là tình trạng các mô răng bị phá hủy, dẫn đến tình trạng đau nhức âm ỉ hoặc dữ dội. Bệnh sâu răng chủ yếu do vi khuẩn có tên Streptococus Mutans gây nên.
Bị bệnh sâu răng uống thuốc gì?
Bệnh sâu răng
Sâu răng là một bệnh phá hoại cấu trúc của răng. Nếu không được điều trị, bệnh này có thể dẫn đến đau răng, rụng răng, nhiễm trùng, và tử vong đối với những ca nặng.
Bệnh sâu răng do một số loại vi khuẩn tạo axit gây ra (cụ thể là các loài Lactobacillus, Streptococcus mutan, và các loài Actinomyces). Các vi khuẩn này gây tổn thương cho răng trong môi trường có các Carbohydrate lên men được, ví dụ như các loại đường Sucrose, Fructose, và Glucose.
Có nhiều cách phân loại các dạng sâu răng. Tuy rằng thể hiện có thể khác nhau, các yếu tố nguy cơ và sự tiến triển của các dạng sâu răng khác nhau vẫn hầu như là tương tự nhau.
Ban đầu, bệnh có thể biểu hiện ở một vùng nhỏ có độ xốp, cuối cùng phát triển thành một lỗ hổng lớn mầu nâu. Người ta có thể trực tiếp nhìn thấy vùng bị sâu, nhưng tia X-quang thường được dùng để kiểm tra những vùng răng khó nhìn thấy hơn và để đánh giá mức độ tổn thương của răng.
Tùy theo mức độ tổn thương của răng, có nhiều phương pháp điều trị khác nhau để khôi phục tình trạng của răng để có được hình dáng, chức năng và thẩm mỹ thích hợp.
Nguyên nhân gây ra sâu răng
Sâu răng được coi là bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, nguyên nhân chính bao gồm vi khuẩn thường xuyên có trong miệng, trong đó Streptococcus mutans là thủ phạm chính. Đồng thời chất bột và đường dính vào răng sau ăn sẽ lên men và biến thành acid do tác động của vi khuẩn.
Vi khuẩn và mảng bám răng:
Mảng bám răng là một màng mỏng bám trên bề mặt răng có chứa nhiều vi khuẩn (trong đó chủng vi khuẩn Streptococcus mutans chiếm đến 95%). Các acid sinh ra từ các chất có trên mảng bám có vai trò quan trọng trong việc gây bệnh sâu răng.
Trong môi trường miệng răng được bao phủ bởi lớp màng dính Glycoprotein có nguồn gốc từ nước bọt. Sau 2 giờ, các cầu khuẩn bắt đầu bám trên màng dính. Sau 24 giờ, có tới 95% các chủng vi khuẩn nuôi cấy được trên mảng bám. Các vi khuẩn thường xếp song song hoặc theo kiểu hàng rào bắt đầu từ lớp sâu của mảng bám, bao gồm cầu khuẩn, trực khuẩn, xoắn khuẩn và vi khuẩn sợi.
Các nghiên cứu thực nghiệm trên động vật cho thấy Streptococcus mutans là chủng vi khuẩn có khả năng gây sâu răng cao nhất. Các chất đường từ thức ăn nhanh chóng khuyếch tán vào mảng bám được vi khuẩn chuyển hóa thành acid (chủ yếu là acid Lactic, ngoài ra còn có acid Acetic và acid Propionic). pH mảng bám có thể giảm xuống rất thấp sau 10 phút ăn đường, mật độ tập trung cao của vi khuẩn trên mảng bám có vai trò quan trọng trong hiện tượng giảm nhanh chóng pH mảng bám.
Sau khoảng 30 - 60 phút, pH mảng bám quay về pH ban đầu do sự khuyếch tán của đường và các acid mảng bám ra môi trường miệng và sự khuyếch tán của các ion đệm từ nước bọt vào mảng bám. Các ion chất đệm này có vai trò hòa loãng và trung hòa acid trong mảng bám. Nếu pH của mảng bám <5,5 thì sẽ gây ra hiện tượng mất khoáng men răng, đây là yếu tố khởi đầu cho sâu răng.
Vai trò của đường:
Sự lên men đường có vai trò quan trọng trong việc gây bệnh sâu răng. Các loại Carbohydrate khác nhau có đặc tính gây sâu răng khác nhau. Sucrose (đường mía) có khả năng gây sâu răng cao hơn các loại đường khác.
Đường trong chế độ ăn được chia làm 2 loại: đường nội sinh (đường trong hoa quả và rau) và đường ngoại sinh (đường bổ sung, nước quả tổng hợp, sữa). Đường ngoại sinh có khả năng gây bệnh cao hơn do vậy nên giảm đường ngoại sinh trong chế độ ăn.
Các nghiên cứu cho thấy sự liên quan trực tiếp giữa chế độ ăn đường và tỷ lệ bệnh sâu răng phụ thuộc vào cách thức và tần suất ăn đường hơn là tổng lượng đường tiêu thụ của mỗi cá thể. Nguy cơ sâu răng sẽ cao hơn ở những cá thể ăn đường giữa các bữa ăn và ở những cá thể hay ăn các loại đường dính trên bề mặt răng.
>>> Xem thêm: Sâu răng ở trẻ em: Nguyên nhân và cách điều trị
Bị sâu răng uống thuốc gì?
Điều trị bệnh sâu răng bằng cách nào?
Các lỗ sâu của răng vĩnh viễn cần được làm sạch hết ngà mủn và trám bằng vật liệu Amalgam, Composite, xi măng Glassionomer; răng sữa có thể trám bằng xi măng Glassionomer, xi măng sứ và xi măng Phosphat.
Những lỗ sâu lớn có thể được hồi phục bằng Inlay hoặc Onlay kim loại hoặc sứ, răng vỡ lớn nên được bọc bằng chụp kim loại hoặc chụp sứ. Răng tổn thương tủy cần được điều trị tủy rồi phục hồi răng.
Hậu quả của sâu răng là sẽ dẫn đến viêm tủy răng, tủy chết, viêm quanh cuống răng, áp xe quanh cuống răng, vỡ răng, giảm thẩm mỹ, hôi miệng... Tuy nhiên, nếu răng được điều trị đúng kỹ thuật thì hoàn toàn có thể sử dụng như các răng bình thường khác.
Bị bệnh sâu răng uống thuốc gì?
Thông thường, nha sĩ sẽ kê 2 loại thuốc cơ bản để bệnh nhân điều trị tại nhà là thuốc giảm đau răng và kháng sinh có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn cũng như hạn chế viêm nhiễm.
Thuốc giảm đau: Paracetamol, aspirin và thuốc kháng sinh như: amoxicyclin, tetracylin, doxycyclin, spiramycin... phối hợp với metronidazol (rhodogyl phối hợp: metronidazol và spiramicin)
Phối hợp các loại kháng sinh họ beta lactam với metronidazol để diệt cả vi khuẩn ái khí và vi khuẩn kỵ khí.
Khi đau nhức răng, bạn có thể tự bổ sung các loại Vitamin C, A, D3, B2... để tăng cường sức đề kháng giúp răng chắc khỏe hơn.
Để xác định đúng tình trạng sâu răng, người bệnh nên tới nha sĩ để được thăm khám và điều trị kịp thời.