Bệnh Lupus ban đỏ hệ thống không thể coi thường
Lupus ban đỏ hệ thống được xem như là một vấn đề toàn cầu với hàng triệu người mắc phải mỗi năm nhưng xã hội vẫn còn rất ít người biết đến sự tồn tại của căn bệnh nguy hiểm này. Sự tiến triển của bệnh rất khó đoán trước với nhiều biểu hiện không rõ ràng và rất dễ nhầm lẫn với nhiều căn bệnh thông thường khác.
Bệnh Lupus ban đỏ hệ thống không thể coi thường
Lupus ban đỏ hệ thống (tên tiếng Anh: Systemic lupus erythematosus, SLE hay lupus) là bệnh tự miễn của mô liên kết, hệ miễn dịch tấn công vào các tế bào và mô của cơ thể gây viêm và hoại tử mô. Bệnh có thể ảnh hưởng tới mọi bộ phận của cơ thể, nguy hiểm nhất là tim, khớp, da, phổi, mạch máu, gan, thận và não bộ. Đây là một căn bệnh nguy hiểm và không thể coi thường.
Lupus ban đỏ hệ thống được xem như một vấn đề toàn cầu với hàng triệu người mắc phải mỗi năm nhưng xã hội vẫn còn rất ít người biết đến sự tồn tại của căn bệnh nguy hiểm này. Sự tiến triển của bệnh rất khó đoán trước với nhiều biểu hiện không rõ ràng và rất dễ nhầm lẫn với nhiều căn bệnh thông thường khác. Có những giai đoạn người bệnh bị ốm, sốt, mệt mỏi nhưng tự phục hồi sau đó. Theo thống kê của nhiều tổ chức y tế trên thế giới, phụ nữ là đối tượng có nguy cơ mắc lupus ban đỏ cao gấp 9 lần so với đàn ông, đặc biệt từ 15 – 50 tuổi và phổ biến hơn ở những người có nguồn gốc châu Âu. Tại Mỹ, hiện nay có khoảng 2 triệu người mắc bệnh và số người tử vong ngày càng cao. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai, mỗi năm có khoảng 400 – 500 bệnh nhân tiến hành điều trị bệnh này, chiếm hơn 1/3 tổng số bệnh nhân điều trị nội trú. (Nguồn: Khỏe Online)
1. Nguyên nhân gây bệnh chưa xác định rõ ràng
Đến nay, vẫn chưa xác định được nguyên nhân cụ thể nào gây ra lupus ban đỏ hệ thống bởi bệnh được gây ra do sự kết hợp của nhiều yếu tố, cụ thể như:
Di truyền
Bệnh phát sinh có thể là do gen, bệnh di truyền theo gia đình nhưng vẫn chưa xác định được một gen riêng lẻ nào là nguyên nhân gây bệnh. Khi có những yếu tố môi trường tác động, nhiều gen có thể có ảnh hưởng đến nguy cơ khởi phát bệnh như kháng nguyên bạch cầu người nhóm I, nhóm II, và nhóm III, IRF5, PTPN22, STAT4, CDKN1A, ITGAM, BLK, TNFSF4, BANK1.
Yếu tố nội tiết
Hoóc môn sinh dục (như estrogen) có vai trò quan trọng trong sự hình thành bệnh. Do đó đối tượng chủ yếu mắc bệnh là phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đặc biệt trong thời kỳ mang thai. Sau giai đoạn mãn kinh, tỷ lệ mắc bệnh và mức độ diễn biến của bệnh đều giảm đáng kể.
Môi trường sống
Môi trường sống có thể là yếu tố kích thích sự khởi phát của bệnh cũng như làm tình trạng bệnh ngày càng nặng thêm. Yếu tố này bao gồm không khí, nguồn nước, đặc biệt là tia UV có trong ánh nắng mặt trời. Tia UV là tác nhân chính kích hoạt việc hình thành các vùng phát ban lupus, thay đổi cấu trúc DNA, hình thành kháng thể tự miễn.
Phản ứng thuốc
Với những người sử dụng thuốc lâu dài rất dễ gặp phải tình trạng phản ứng thuốc. Lupus do thuốc gây ra có những triệu chứng cũng gần giống như Lupus ban đỏ hệ thống nhưng thường tự mất đi khi dừng sử dụng các loại thuốc gây dị ứng. Có khoảng 400 loại thuốc có thể gây ra lupus ban đỏ, những loại phổ biến nhất là procainamide, hydralazine, quinidine, phenytoin, procainamide, Acébutolol, D pénicillamine, quinidine, Isoniazide, chlorpromazine, sulfasalazine, minocycline, carbamazépine, interfenon α và γ.
Ngoài ra, các chất cytokine như interfon, yếu tố kích thích sinh bạch cầu hạt, các kháng thể dùng trong lâm sàng như anti TNF hay tác nhân nhiễm trùng như parvovirus B19 cũng là một trong những tác nhân gây bệnh.
2. Triệu chứng bệnh Lupus ban đỏ thường không cụ thể
Biểu hiện của Lupus ban đỏ hệ thống có thể bùng phát bất thường hoặc từ từ sau nhiều tháng hoặc năm ủ bệnh. Bệnh có ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan trong cơ thể nên biểu hiện bệnh cũng hết sức đa dạng, khó xác định, có chiều hướng nặng vào các tháng lạnh.
Trong giai đoạn khởi phát, bệnh có các triệu chứng mơ hồ và giống nhiều bệnh lý, thời gian từ khi triệu chứng sớm nhất xuất hiện đến có thể xác định đúng bệnh có thể kéo dài đến vài năm. Bệnh thường được phát hiện khi đã chuyển qua giai đoạn toàn phát với nhiều biểu hiện bệnh nguy hiểm, khó điều trị.
Theo số liệu tại các bệnh viện cho thấy, có hơn 90% bệnh nhân đến thăm khám có các triểu chứng không đặc hiệu như sụt cân, người mệt mỏi, sốt nhẹ, rụng tóc, miệng viêm loét, đau khớp, rối loạn kinh nguyệt. Trong đó, khoảng 3/4 bệnh nhân có dấu hiệu nổi ban đỏ bất thường trên da ( hình cánh bướm trên mặt) – một dấu hiệu đặc trưng riêng của Lupus ban đỏ.
Ở giai đoạn toàn phát, bệnh nhân xuất hiện những tổn thương ở nội tạng như tràn dịch màng tim, viêm cơ tim, tràn dịch màng phổi, viêm cầu thận, co giật, rối loạn thần kinh, xuất huyết. Đây chính là những nguyên nhân chủ yếu gây tử vong ở người bệnh vì các triệu chứng này thường xảy ra đột ngột, xen kẽ giữa những thời gian bệnh lui bệnh.
3. Bệnh Lupus ban đỏ có chữa được không?
Hiện nay chưa có phương pháp nào có thể điều trị hoàn toàn bệnh Lupus ban đỏ nhưng có bệnh có thể kiểm soát được nếu điều trị đúng cách ngay từ khi phát hiện. Mục đích của các liệu pháp điều trị chủ yếu là làm giảm các triệu chứng và hạn chế sự tiến tiến của bệnh.
Một số loại thuốc được sử dụng để chống viêm giảm đau ở khớp thường được sử dụng như Aspirin, Ibuprofen, Naproxen, Nimesulide. Tuy nhiên những loại thuốc này có tác dụng phụ là gây viêm loét dạ dày tá tràng nên trước khi sử dụng bạn nên ăn no. Với những bệnh nhân ở giai đoạn toàn phát, bác sĩ sẽ cho sử dụng các loại thuốc như prednisolone, methylprednisolone (Solu-medrol, Medrol), prednisone (Cortancyl), betamethasone (Celeston). Nhóm thuốc này có tác dụng chống viêm mạnh hơn nhóm NSAIDs nhưng cũng nhiều tác dụng phụ hơn và chỉ dùng trong trường hợp bệnh nặng. Các loại thuốc chống sốt rét như Hydroxychloroquine, Chloroquine, ức chế miễn dịch như azathioprin (Imuran), cyclophosphamide (Endoxan), cyclosporin (Sandimmun).
Nói chung, chưa có một loại thuốc nào chứng minh được hiệu quả đặc hiệu trong điều trị mà cần kết hợp nhiều loại với nhau. Những loại thuốc dùng điều trị đa số đều có những tác dụng phụ nguy hiểm nếu không sử dụng đúng cách. Do đó, người bệnh cần tuyệt đối tuân theo sự hưỡng dẫn và liều lượng của bác sĩ chuyên khoa để tránh những tác dụng không mong muốn, đe dọa đến tính mạng.
Bệnh Lupus ban đỏ cực kỳ nguy hiểm nhưng hiện tại chưa có biện pháp phòng tránh nào, tuy nhiên người bệnh có thể giảm thiểu các tác hại do bệnh gây ra bằng cách ngăn chặn các đợt tái phát bệnh nhờ chế độ ăn uống phù hợp, tăng cường vận động, nâng cao chất lượng cuộc sống và quan trọng hơn là phải kiên trì, giữ vững tinh thần trong suốt quá trình điều trị bệnh.
4. Khám bệnh Lupus ban đỏ hệ thống ở đâu?
Tại Hà Nội
Bệnh viện Bạch Mai
Sau khi có quyết định của Bộ y tế về việc tái thành lập khoa da liễu Bệnh viện Bạch Mai năm 2006 mặc dù nhân lực, cơ sở vật chất trang thiết bị còn nhiều khó khăn, với sự nỗ lực, cố gắng, đoàn kết của cả tập thể, khoa đã đạt được những thành tích rất tốt: Công tác khám chữa bệnh cả nội trú và ngoại trú được thực hiện rất tốt đã điều trị nội trú cho hàng ngàn lượt bệnh nhân; rút ngắn được thời gian điều trị nội trú trung bình xuống còn 9,36 ngày/ bệnh nhân nhằm giảm thiểu chi phí cho bệnh nhân và chống quá tải bệnh viện; đặc biệt vào tháng 5 năm 2014 khoa đã phối hợp cùng với khoa Nhi góp phần dập tắt dịch sởi. Đã thành lập và đưa vào hoạt động các kỹ thuật cao trong điều trị nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người bệnh như: Laser CO2, Plasma, chăm sóc da bằng sản phẩm từ tế bào gốc, phòng xét nghiệm chuyên khoa.
Khoa Cơ Xương Khớp, Bệnh viện Bạch Mai được thành lập ngày 19 tháng 9 năm 1969, được tách ra từ khối Nội chung của Bệnh viện. Trải qua 45 năm xây dựng và phát triển đến nay khoa đã có 74 giường bệnh với 51 nhân viên. Trong quá trình xây dựng và phát triển dưới sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Y tế, Đảng ủy - Ban Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, các thế hệ Lãnh đạo tiền nhiệm qua các thời kỳ, đặc biệt của Giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Ân, người đã có công lao thành lập chuyên ngành Thấp khớp học, người thầy đầu tiên trong ngành Cơ xương Khớp, tập thể và cán bộ khoa đã luôn nỗ lực cố gắng trong công tác chuyên môn cũng như trong nhiều hoạt động khác và Khoa đã có nhiều thành tích được ghi nhận.
Điện thoại: 0243 6290 484
Địa chỉ: 78 Giải Phóng, phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội
Bệnh viện E
Bệnh viện E là bệnh viện Đa khoa Trung ương trực thuộc Bộ Y tế, thành lập từ 10/1967 theo quyết định số 175/TTg do Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị với nhiệm vụ điều trị và chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ từ chiến trường miền Nam ra Bắc chữa bệnh. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, bệnh viện chuyển sang phục vụ khám, chữa bệnh cho cán bộ các cơ quan Trung ương đóng tại Hà Nội có mức lương từ 70 đồng đến 114 đồng. Từ 1993, xoá bỏ chế độ bao cấp, bệnh viện nhận điều trị cho các đối tượng có thẻ BHYT và nhân dân trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh. Năm 2002, bệnh viện được Bộ Y tế nâng lên bệnh viện hạng I với 340 giường bệnh. Đến nay, bệnh viện đã phát triển thành bệnh viện đa khoa tương đối hoàn chỉnh với 390 giường bệnh và 36 khoa phòng với chức năng nhiệm vụ: khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ, hợp tác quốc tế, chỉ đạo tuyến và quản lý kinh tế y tế.
Bệnh viện có hai cơ sở khám chữa bệnh: cơ sở chính tại Nghĩa tân, Cầu giấy và một phòng khám tại 13 Phan Huy Chú. Bệnh viện được giao 390 giường kế hoạch, tổ chức thành 22 khoa lâm sàng, 8 khoa cận lâm sàng, 6 phòng chức năng với các chuyên khoa sâu về nội, ngoại, sản, Tai Mũi Họng, Răng - Hàm - Mặt, mắt..., 01 Trung tâm xương khớp - chấn thương chỉnh hình - phục hồi chức năng. Tổng số cán bộ công chức: 430 trong đó có 1 Giáo sư, 2 Phó giáo sư, 8 Tiến sĩ, 34 bác sĩ chuyên khoa II, 32 thạc sĩ.
Điện thoại: 0243 7543 832
Địa chỉ: 89 Trần Cung, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Tại TP. Hồ Chí Minh
Bệnh viện Nhân dân 115
Khoa Cơ xương khớp được thành lập ngày 30/11/2009. Tiền thân từ đơn vị cơ xương khớp (Khoa Nội Tiết) bệnh viện Nhân dân 115. Khoa được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu khám và điều trị các bệnh về hệ cơ xương khớp như viêm khớp, loãng xương, viêm gân cơ, và các bệnh miễn dịch như lupus và xơ cứng bì. Khoa không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, điều trị và nghiên cứu y học, tất cả nhằm vào ưu tiên số 1 là chăm sốc cho bệnh nhân. Ngoài ra, khoa còn phối hợp với trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch tham gia giảng dạy và tiến hành nhiều công trình nghiên cứu khoa học.
Điện thoại: 0283 8650 969
Địa chỉ: 818 Sư Vạn Hạnh, phường 12, quận 10, TP Hồ Chí Minh
Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 1994, Phòng khám Đa khoa Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh ra đời và năm 2000 Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định số 3639/2000 QĐ-BYT. Đến nay, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh là một bệnh viện công lập đa khoa hạng I hoạt động theo mô hình tiên tiến kết hợp Trường – Viện, gồm 3 cơ sở, 11 phòng chức năng, 27 Khoa Lâm sàng và Cận Lâm sàng, 8 phân khoa và các đơn vị nghiên cứu chuyên khoa sâu. Bệnh viện hiện có 1000 giường bệnh, 66 phòng khám ngoại trú với đầy đủ các chuyên khoa sâu và 17 phòng mổ được trang bị hiện đại: nhiều máy phẫu thuật nội soi, kính hiển vi phẫu thuật dùng mổ u tủy, nối mạch máu thần kinh, phẫu thuật tạo hình, được trang bị các phương tiện chẩn đoán trong khi mổ như máy X quang di động, siêu âm trong mổ, các phương tiện cầm máu hiện đại như dao cắt đốt siêu âm, dao cắt đốt laser, bệnh viện đầu tư dao cắt đốt Cusa để mổ cắt gan và tương lai phục vụ cho mổ ghép gan.
Bệnh viện có đội ngũ chuyên môn Bệnh viện là những Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ đầu ngành, những người không chỉ giỏi về lý thuyết y khoa mà còn giàu kinh nghiệm trong thực hành điều trị cùng hệ thống trang thiết bị hiện đại, Bệnh viện luôn tiếp cận nhanh và ứng dụng các thành tựu y học tiên tiến trên thế giới trong việc khám chữa bệnh. Bệnh viện có đầy đủ các chuyên khoa sâu: Tim mạch, Thần kinh, Nội tiết, Tiêu hóa, Gan mật, Thận niệu, Xương khớp, Mạch máu – Lồng ngực, Hô hấp, Phụ sản, Mắt, Tai mũi họng, Da liễu, Hậu môn – Trực tràng.
Từ khi thành lập đến nay, Bệnh viện đã khám và chữa bệnh cho trên 16 triệu lượt bệnh nhân. Việc khám và điều trị bệnh bệnh nhân đạt kết quả ngày càng cao, thời gian điều trị ngắn, từ đó tạo được sự tín nhiệm của bệnh nhân trong nước cũng như của nước bạn Campuchia. Bệnh viện đã và đang áp dụng những kỹ thuật mới, những phương pháp mới trong chẩn đoán và điều trị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác khám chữa bệnh, sánh ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới.
Điện thoại: 0283 8554 269
Địa chỉ: 215 Hồng Bàng, phường 11, quận 5, TP Hồ Chí Minh
Trương Thủy